Về già, mắt sẽ bị thoái hoá điểm vàng (hoàng điểm). Có nhiều dạng thoái hóa điểm vàng, trong đó thoái hoá điểm vàng tiến triển nhanh đến giai đoạn cuối, hay còn gọi là dạng thoái hoá điểm vàng tân sinh mạch máu là rất nguy hiểm, dẫn tới mất thị lực hoàn toàn. Chỉ có khoảng 10% trong số người thoái hoá điểm vàng do tuổi già bị thoái hoá điểm vàng dạng này... 

Thoái hoá điểm vàng là sự hình thành các mạch máu mới dưới vùng trung tâm nhạy cảm nhất của võng mạc, tức là điểm vàng (macula). Các mạch máu này phát triển vô tổ chức, gây ra các xuất huyết nhỏ làm thoái hoá chức năng võng mạc dẫn tới mù. Trước đây, bệnh chưa có phương pháp chữa trị. Ngày nay, có các liệu pháp dựa trên nguyên tắc chung là ngăn chặn sinh ra tân mạch hoặc làm tắc nghẽn các mạch máu.

Sử dụng liệu pháp dùng thuốc: Mạch máu muốn sinh ra phát triển được phải cần đến yếu tố tăng sinh mạch máu VEGF (vascular endothelial growth factor). Tiêm một kháng thể vào nhãn cầu, kháng thể này sẽ gắn kết với VEGF, không cho VEGF  bám vào các thụ thể nằm ở mặt  ngoài các tế bào bao phủ các mạch máu mới nên sẽ ức chế sự sản sinh thêm các mạch máu mới và làm cho các mao mạch đã có từ trước trở lại hoạt động bình thường, điểm vàng và các chức năng của nó sẽ được hồi phục..

iều trị thoái hóa điểm vàng bằng thuốc ức chế sinh tân mạch

Điều trị thoái hóa điểm vàng bằng thuốc ức chế sinh tân mạch

Thuốc lucentis là một kháng thể đơn dòng, được dùng chữa bệnh thoái hoá điểm vàng dựa trên nguyên lý trên. Trước đây thuốc đã được nghiên cứu trên 716 người. Sau một năm dùng, thị lực của 40% người bệnh được cải thiện rõ rệt trong khi các liệu pháp cũ, tỉ lệ này chỉ khoảng 6%. Tương tự còn có thuốc avastin được phép lưu hành từ năm 2004 để chống tăng sinh mạch máu điều trị ung thư ruột già, gần đây (năm 2005) mới phát hiện được công dụng mới chữa thoái hoá điểm vàng.

Trong một số bệnh như đái tháo đường có sự hình thành các mạch máu mới (tân mạch) ở dưới võng mạc mắt, gây ra các tổn thương, dễ thành sẹo, dẫn đến mù mắt. Chondroitin ức chế sự phát triển tân mạch làm cho sẹo khó hình thành phát triển nên dùng dự phòng mù mắt trong bệnh thoái hoá điểm vàng do đái tháo đường.

Có nên sử dụng mật gấu?

Trong thí nghiệm ở chuột, khi tiêm acid mật tổng hợp vào võng mạc bị viêm võng mạc sắc tố thì thấy sau 3 lần tiêm võng mạc  khỏi viêm, trở lại bình thường. Ngay  từ  năm 1902, Hammerstan thấy trong mật gấu ngựa có chlestrerol và các acid mật như cholic acid và ursodeoxycholic acid (UDCA). Từ đó các nhà khoa học suy ra có thể dùng UDCA (có ở mật gấu, hiện đã tổng hợp được) để chống lại việc tế bào "chết theo chương trình". Một số nghiên cứu mới cho biết, UDCA có tác dụng giải độc gan, giúp phục hồi bảo vệ gan (do xơ gan vì rượu), tăng cường sức khoẻ chống mệt mỏi, stress. Tuy nhiên FDA mới chính thức công nhận UDCA là thuốc phòng ngừa sỏi mật và xơ gan tắc mật nguyên phát, làm tan sỏi mật.  Chưa thấy tài liệu dùng mật gấu hay UDCA chữa bệnh mắt. Sách cổ có ghi, mài mật gấu vào nước đun sôi, để nguội, rỏ vào mắt  chữa mắt đỏ có màng, chưa kiểm tra, nhưng có người làm theo như thế bị mù mắt. Cần cảnh giác.

Tế bào thần kinh mắt và các tế bào não liên quan có hiện tượng "chết theo chương trình" gây nên một số bệnh về mắt như thoái hoá sắc tố võng mạc. Về lí thuyết có thể dùng liệu pháp "khoá" các tác yếu tố gây "chết theo chương trình" này lại để làm chậm, ngăn chặn sự chết ấy. Song đến nay, chưa tìm được thuốc theo hướng  này.

Và các thuốc bổ mắt  khác?

Ở người già, do tác động của  gốc tự do, thuỷ tinh thể bị xơ cứng, giảm sút sự đàn hồi (bệnh lão thị), protein trong dịch thuỷ tinh thể bị đục dần đi, thị lực giảm dần, gây mù (mù đục nhân mắt); protein trong dịch mắt bị biến đối (gây thoái hoá điểm vàng).

Có thể dùng các chất chống gốc tự do  để làm chậm sự xuất hiện tiến triển của bệnh này như  vitamin E, vitamin C, betacaroten và selen ...

Cũng có thể dùng chondroitin, chiết xuất từ sụn cá mập. Chất này có trong hầu hết mô người, đặc biệt là trong mô liên kết mắt. Nó làm tăng và vững bền collagen nội bào duy trì tính co giãn của mô liên kết, nên duy trì tính đàn hồi của thuỷ tinh thể và thể mi, giúp cho sự điều tiết của mắt; ngăn ngừa các protein bị viêm thương tổn, làm chậm sự già hoá, đồng thời làm thay đổi nhanh các tế bào suy yếu nên phòng ngừa sự mờ đục của thuỷ tinh thể và giác mạc, đảm bảo cho sự trong suốt cho tổ chức này, cải thiện sức nhìn; làm chóng lành các tổn thương giác mạc, tái tạo lại lớp "phím" nước mắt trước giác mạc, làm cho mắt không bị khô, ức chế sự  thoát mạch và làm giảm sự sung huyết. Đây là những thuốc dự phòng hoặc làm chậm sự tiến triển bệnh, vẫn quen gọi là thuốc bổ mắt.

Trong tất cả các trường hợp phải khám và dùng thuốc theo chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc. Không nên tự ý dùng các thuốc giới thiệu trên mạng hay theo mách bảo của người khác tránh những rắc rối do thuốc gây ra.

DS. Bùi Văn Uy

 Sức khỏe đời sống Online